Thứ Hai, 22 tháng 9, 2014

Men say đại ngàn

Không gian cổ tích, nguyên sơ. Ngọn lửa thiêng hừng hực cháy. Tiếng chiêng cồng vút lên tận đỉnh núi. Những chàng trai, cô gái bon Lạch dưới chân núi LangBiang dặt dìu quý khách vào vòng xoang. Những câu yal yau, tam pơt tuôn trào trong men rừng ngất ngây, đêm hội bắt đầu…
 
Không hẹn trước, tôi tìm về bon Lạch dưới chân núi LangBiang (Lạc Dương) vào đêm trăng hạ tuần. Đó là buôn làng được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nhiếp ảnh gia, nhà báo… tìm đến. 
 
Vui hội buôn làng
Vui hội buôn làng
 
1. Cây nêu cao chừng bốn, năm mét được dựng lên, rượu cần đã được bày biện theo khuôn phép của Yàng; những chàng trai, cô gái miền sơn cước đã xôm tụ, tiếng tù và khai hội của già làng Krajan Plin vang vọng: “Này tôi mời gọi hỡi thần linh/ Khui rượu cần tôi mời nếm thử/ Rượu cần ngon tôi mời thần uống...”. Thủ tục xin phép thần linh vừa dứt, các điệu chiêng mừng khách quý, mừng ngày hội mùa… tấu lên thổn thức.
 
Rượu cần ở bon Lạch có từ khi nào? - Tôi hỏi. “Ồ, không ai biết được đâu, trong sử thi đã có rồi mà. Lúc đầu, người ta không biết hút, chỉ vắt thứ nước trắng đục từ men rừng mà uống làm con người lâng lâng, bay bổng. Sau đó, thần Nhím mới bày cho cách uống bằng ống tre. Vì thế, người Tây Nguyên có tục lệ trước khi uống rượu cần đều mời Yàng, mời thần Nhím uống trước” - Krajan Plin cho hay. 
 
Tôi may mắn nhiều lần được vui mùa hội Nam Tây Nguyên, được chiêm nghiệm thứ men rừng LangBiang và ngả nghiêng cùng sơn nữ trong đêm rừng huyền thoại. Ngồi vít cần rượu cùng sơn nữ Cil Rilin, bỗng nhớ đến câu thơ ai đã viết: Ta vin cần uống núi rừng thiêng/ Em múc trăng vàng về tan đáy rượu/ Giọt mắt hòa vào men chuếnh choáng/ Tôi chìm trong hương tóc trăng em... 
 
Rượu cần không thể thiếu trong đời sống của người Tây Nguyên, từ lễ tết, hội hè đến chuyện gia đình, dòng tộc, chuyện buồn vui, họ đều cùng nhau vịn cần để sẻ chia, kết nối. Văn hóa rượu cần tự nhiên hình thành, từ cách làm đến nghi thức mời rượu… 
Để có ché rượu cần thơm nồng, dịu ngọt, uống vào lòng người nhẹ tênh cũng lắm công phu. Ngồi cạnh tôi, chị Sara, vợ già làng Krajan Plin gật gù cho biết phụ nữ ở đây phần đông đều biết làm rượu cần. Các loại gạo, nếp, bắp... đều làm được rượu. Nhưng, rượu cần thương hiệu LangBiang có bí quyết riêng. Chính lúa rẫy và men rừng (từ một số loại lá, vỏ, rễ và cây đòng) đã tạo ra mùi hương đặc trưng. “Say đi anh, đêm trăng thanh vẫn tỏ lối về. Rượu cần LangBiang là thế. Đê mê mà rất tỉnh táo” - Sara nói.
Theo già Păng Ting Póh (86 tuổi, buôn Bon Đơng 2), ngày xưa làm rượu cần kỳ công lắm. Trước khi làm rượu phải kiêng “chuyện vợ chồng”, lúc nào thân thể khỏe mạnh, sạch sẽ mới làm. Người lạ không được vào nơi ủ rượu, không thì rượu sẽ chua. Cái nắp ché cũng là sự công phu, được làm từ tro với nước. Khi rượu đến độ chín, hương thơm tỏa khắp nhà dài… Giờ thì công nghệ rồi, không còn cầu kỳ nữa.
 
Nhà nhà ở bon Lạch ủ rượu cần cho những dịp lễ tết, hội hè và hơn mười năm nay, mười một nhóm văn hóa cồng chiêng dưới chân núi LangBiang tự làm rượu cần đãi khách, rượu cần có thêm không gian mới để hiện diện. Và mới đây, rượu cần LangBiang đã được cấp nhãn hiệu sở hữu trí tuệ. Men say đại ngàn Tây Nguyên có thêm cơ hội lan xa, cùng mùi hương đặc trưng, đắm đuối.
 
Có thể nói, văn hóa rượu cần đã ăn sâu vào tên đất, tên buôn và tâm thức của những người con núi rừng Tây Nguyên huyền thoại. Rượu cần là “thức uống tâm linh”, uống giữa đại ngàn và sống trong không gian văn hóa của lễ hội… 
 
Men say đại ngàn Nam Tây Nguyên
Men say đại ngàn Nam Tây Nguyên
 
2. Đêm đã sâu hun hút, lửa rừng bập bùng, nhịp chiêng vẫn quấn quyện những đôi chân trần chàng trai, cô gái miền sơn cước trong hương rượu cần nghiêng ngả. Ánh trăng nhạt dần, chỉ còn huyền ảo dáng núi LangBiang như bộ ngực sơn nữ căng tròn. Tôi mung lung về miền hư ảo… 
 
Già làng Krajan Plin vỗ vai, mê sơn nữ LangBiang rồi à? Quả thật, không chỉ trong huyền tích mà ngay trong không gian hiện hữu này, những cô gái bộ tộc Lạch thật lạ. Không hổ danh là những con chim ch’rao vùng Nam Tây Nguyên, như nhận định của nhiều người. “Con gái ở đây mũi cao, mắt cong và sâu, dáng mỹ miều… giống nữ thần apsara trong truyền thuyết. Có thể, đó là sự “giao thoa” thời Chăm Pa, một số người dòng dõi hoàng tộc đã lên xứ này?!” - Già làng Krajan Plin tiếp lời.
 
Tôi nhìn quanh, nào sơn nữ Cil Rilin, Cil Dalin, Krajan Pheny, Krajan Loen (lọt vào vòng bán kết Cuộc thi Hoa hậu các dân tộc Việt Nam 2011) và Hoa hậu miền sơn cước 2007 Krajan Jut Jui… những bông hoa rừng nguyên sơ, hoang dã. Phó Chủ tịch UBND huyện Lạc Dương, ông Nguyễn Quốc Kỳ đồng tình: “Có lẽ, không nơi nào phụ nữ có đôi mắt, sống mũi và dáng đẹp như thế. Đáng tiếc, giờ họ ít khi mang gùi để thấy rõ khuôn ngực căng tròn, đầy đặn”.
 
Lần theo cứ liệu, địa chí Lâm Đồng có nhắc đến “dấu vết” tiếp xúc giữa người Lạch với nền văn hóa Chăm Pa khá đậm nét. Văn hóa Chăm Pa đã mang đến cho các cư dân Nam Tây Nguyên nghề làm lúa nước, phá vỡ dần tính bền vững của tổ chức xã hội cổ truyền theo làng khép kín. Trong nhiều truyện cổ có nhắc đến cuộc hôn nhân đầy trắc trở, nhưng diễm tình giữa chàng Choi (K’Ho) và công chúa Chăm Nai Tơlui, hay cuộc hôn nhân vì liên minh quân sự giữa K’Bùng với công chúa Hé (Chăm)… 
 
Mọi sự ghi chép văn hóa dân tộc đều thông qua truyền miệng, nên tiếng nói của người Lạch cũng là ngôn ngữ thơ ca uyển chuyển, vần điệu, đầy nhạc tính và hình tượng.
Một sự ngẫu nhiên hay sự thật, khi ông cố của vợ Krajan Plin mang tên Sara, cái tên rất lạ, lấy vợ thuộc hoàng tộc người Chăm; đến vợ già làng Krajan Plin cũng mang cái tên đó. “Nhiều thế hệ rồi, sắp tới mình cũng đặt tên Sara cho cháu mình. Cũng bởi sự giao thoa đó, nên âm nhạc, nghệ thuật đã cuộn chảy trong máu người Lạch khi còn trong bụng mẹ” - Già làng Krajan Plin cho hay.
Ngoài cái lý của sự giao thoa, có lẽ, với không gian khoáng đạt đại ngàn; miền Nam Tây Nguyên thơ mộng, huyền ảo cũng tạo cho những người con núi rừng nét đẹp hoang dã, thân thiện. Hiện, trong sử liệu Lâm Đồng còn lưu giữ nhiều bức ảnh đen trắng tuyệt đẹp về sơn nữ Lạch buông lơi ngực trần tròn mọng, những cụ bà giữ tục “cà răng, căng tai”... Ngày nay, tục để ngực trần của sơn nữ không còn nữa, nhưng vẻ mặn mà của những đóa hoa rừng LangBiang vẫn đầy hấp lực. Nhan sắc hồn nhiên, đủ để những chàng trai một lần chếnh choáng hương rượu cần… mà quên lối về. 
 
Thiếu nữ Lạch
Thiếu nữ Lạch
 
3. Chiêng, lửa, rượu cần và sơn nữ… là những thực thể giao hòa trong không gian văn hóa đại ngàn Tây Nguyên. Tiếng chiêng ngân lên làm con nai rừng ngơ ngác, lòng người rạo rực bên ngọn lửa thiêng. Hương rượu cần mênh mang, quấn quyện những đôi chân trần sơn nữ. “Trong truyện cổ K’Ho, người đầu tiên mở ché rượu cần, rót nước vào ché rượu theo nghi thức cũng phải là một cô gái trẻ đẹp, khéo tay” - già làng Krajan Plin nói.
 
Đỉnh LangBiang đang bồng bềnh trôi trong sương khuya. Tôi cũng đã ngất ngây trong hương nồng rượu cần, đắm đuối với vẻ đẹp hoang dã của sơn nữ vai trần, bí ẩn và phiêu du dưới ánh trăng hạ tuần…
 
MAI VĂN BẢO (Báo Nhân Dân)

Không có nhận xét nào: